TS Nguyễn Trí Hiếu: “Hệ thống tài chính Việt Nam có rất nhiều lỗ hổng do chế độ sở hữu đất đai
adminquantri
0 Bình luận
24/07/2020
TS Nguyễn Trí Hiếu – chuyên gia tài chính ngân hàng cho rằng hệ thống tài chính ở Việt Nam có rất nhiều lỗ hổng do chế độ sở hữu đất đai và từ đó không có bảo hiểm quyền sở hữu đất.
Chính sách về đất chưa minh bạch
Khi nhắc đến bất động sản nông nghiệp, TS Nguyễn Trí Hiếu cho biết có 2 yếu tố đầu tiên cần lưu ý: thứ nhất là huy động quỹ đất, thứ hai là vốn cho lĩnh vực này.
Theo TS Hiếu, ở Mỹ, người nông dân có quyền sở hữu đất. Đất đai thuộc về cá nhân và cũng có quỹ đất thuộc về Chính phủ, song đất sở hữu là của mỗi người dân và Chính phủ không phải là cơ quan quản lý đất. Người dân Mỹ nói chung và nông dân nói riêng được sở hữu đất riêng, còn người dân ở trong thành phố có đất và nhà ở trên đất.
Trong khi đó ở Việt Nam, đất đai thuộc về toàn dân và Nhà nước quản lý. Tức là mỗi người dân Việt Nam và người nông dân nói riêng không trực tiếp sở hữu đất mà chỉ thuê đất của nhà nước. Có thể thuê vĩnh viễn, có thể thuê dài hạn nên dân không có quyền sở hữu.
Chính vì sự khác biệt về sở hữu đất đai đó mà các chính sách về đất hoàn toàn khác nhau.
Cũng theo ông Hiếu, ở các nước khác đều có một công cụ tài chính rất phổ biến là bảo hiểm quyền sở hữu đất. Một người ở bên Mỹ muốn mua đất hay mua nhà thì trước tiên, họ thường tiếp xúc một hãng bảo hiểm. Hãng bảo hiểm sẽ cung cấp một dịch vụ bảo hiểm quyền sở hữu trên miếng đất nào đó mà họ muốn mua. Khi hãng bảo hiểm muốn cung cấp dịch vụ này thì sẽ điều tra mảnh đất đang thuộc quyền sở hữu của ai và trước đó, ai là người sở hữu; mảnh đất có bị thế chấp cho ai không; có nợ thuế Chính phủ không.
“Nếu mảnh đất hoặc người đang sở hữu mảnh đất đang nợ thuế Chính phủ hoặc đang thế chấp, cầm cố cho một ngân hàng nào đó thì hãng bảo hiểm yêu cầu người muốn mua mảnh đất phải giải quyết tất cả những vấn đề rắc rối trước. Nghĩa là người đang sở hữu mảnh đất đó phải trả thuế cho Chính phủ, phải giải chấp những tài sản thế chấp. Chỉ khi hoàn thành các thủ tục này xong, hãng bảo hiểm mới bán dịch vụ cho người muốn mua mảnh đất. Thành ra người mua nhà và đất ở bên Mỹ rất yên tâm vì có một công ty đã điều tra thực trạng pháp lý của mảnh đất”, TS Hiếu cho biết.
Ngược lại, ở Việt Nam lại không có bảo hiểm đó, ông Hiếu nói và cho rằng trong mấy chục năm qua, xảy ra nhiều thiệt hại cho người dân, nhiều vụ mà người dân bỏ hết tiền mua nhưng cuối cùng có một ngân hàng nào đó không giải chấp. Cùng với đó là các vấn đề lừa đảo, các vấn đề liên quan đến tài chính xảy ra.
“Hệ thống tài chính ở Việt Nam có rất nhiều lỗ hổng do chế độ sở hữu đất đai ở Việt Nam và từ đó không có bảo hiểm quyền sở hữu đất”, Chuyên gia tài chính – ngân hàng nhấn mạnh.
Theo TS Hiếu, chính vì vướng mắc về tính pháp lý, tính sở hữu, tính rủi ro của đất mà khiến cho việc thu gom đất, tạo ra quỹ đất rộng lớn cũng phức tạp, lằng nhằng, khó thực hiện.
Vốn cho thị trường nông nghiệp ít
Về vấn đề vốn cho thị trường nông nghiệp, TS Nguyễn Trí Hiếu cho hay ở Mỹ, người dân muốn mua đất nông nghiệp để cày cấy, dù làm ruộng hay sản xuất kinh doanh, đều đến ngân hàng để vay tiền. Khi đến vay ngân hàng sẽ có một hãng bảo hiểm điều tra tình trạng pháp lý của mảnh đất rồi sẽ cho vay.
“Chính sách hỗ trợ vay cho ngành nông nghiệp tại Mỹ rất dễ dàng và ưu đãi”, ông Hiếu đánh giá.
Ngoài ra, doanh nghiệp nông nghiệp còn huy động vốn bằng trái phiếu hay thị trường chứng khoán. Nguồn vốn của họ đa dạng và đảm bảo. Bên cạnh đó, Chính phủ hay chính quyền tại các bang còn hỗ trợ cả phần đầu ra của ngành nông nghiệp. Họ bảo trợ rất tốt cho sản phẩm khiến người nông dân an tâm, vừa được cả đầu vào, vừa đảm bảo đầu ra.
Trong khi đó, ông Hiếu cho rằng các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp lại đang dựa quá nhiều vào vốn của ngân hàng nhưng mức lãi suất còn cao.
“Đó là hạn chế lớn, cản trở sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam. Bởi vốn ngân hàng chỉ có giới hạn, lại phải thẩm định, kiểm tra phức tạp, mất thời gian và lãi suất cao. Chưa kể, vốn ngân hàng sẽ ít cho vay vốn trung và dài hạn. Trong khi đó, đây là 2 nguồn vốn cần thiết trong sản xuất và kinh doanh”, TS Hiếu phân tích.
Phần lớn các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp tại Mỹ đều sở hữu vốn tự có rất cao. Họ huy động vốn trên thị trường chứng khoán nhiều hơn là vay ngân hàng. Vì quy mô lớn, họ có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Ngoài ra, thị trường tài chính bên Mỹ rất rộng lớn, không giới hạn trong một vài ngân hàng. Thông thường, doanh nghiệp chỉ lựa chọn ngân hàng để vay vốn lưu động. Còn vốn trung và dài hạn sẽ đến từ nguồn chứng khoán, phát hành trái phiếu và cổ phiếu.
Ngược lại, ông Hiếu thông tin ở Việt Nam, hầu hết các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp chủ yếu vay vốn ngân hàng, khó phát hành trái phiếu hoặc huy động vốn từ thị trường chứng khoán. Bởi quy mô của các doanh nghiệp đa phần nhỏ, sản xuất có phần tự phát, manh mún.
Mặt khác, để có thể huy động được vốn trên thị trường chứng khoán, doanh nghiệp buộc phải có báo cáo tài chính rõ ràng, có kiểm toán, có lợi nhuận… Trong khi đó, những công ty quy mô nhỏ thường khó đáp ứng các yêu cầu đó. Lợi nhuận bấp bênh và không có khoản tiền duy trì đều đặn việc lập báo cáo tài chính, kiểm toán.
Vị chuyên gia tài chính – ngân hàng đánh giá, nông nghiệp là một ngành vô cùng quan trọng đối với các quốc gia trên thế giới. Hiện tại, dân số thế giới là 7,7 tỷ người và đến năm 2050, con số dự kiến sẽ là 9 tỷ người. Nông nghiệp là ngành nuôi sống hàng tỷ người trên thế giới.
Theo ông, nếu nông nghiệp bị khủng hoảng, sẽ xảy ra tình trạng đói kém, hỗn loạn. Bởi thế mà tại nhiều nước trên thế giới, nông nghiệp luôn nhận được nhiều chính sách hỗ trợ. Điển hình như ở châu Âu, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp đều có rất nhiều ưu đãi. Hay như ở Mỹ, khi cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung diễn ra, Tổng thống Donald Trump đã lên tiếng hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động trong nông nghiệp chịu thiệt hại từ việc hàng hóa không xuất sang Trung Quốc.
Việt Nam là một nước có xuất phát điểm từ nông nghiệp. Và nông nghiệp là một ngành chủ đạo, có đóng góp lớn cho nền kinh tế và cho xuất khẩu.
Nhưng thực tế, ông Hiếu cho rằng nông nghiệp Việt Nam vẫn chưa nhận được nhiều ưu đãi như đáng lẽ ra nó phải có. Mặc dù, Chính phủ tuyên bố quan tâm đến ngành nông nghiệp song thực tế, hiện nay, các doanh nghiệp vẫn còn khá vất vả trong việc tìm kiếm một con đường để phát triển.
Điển hình nhất có thể thấy, vốn dành cho ngành nông nghiệp so với các ngành nghề khác là rất ít. Vốn vay từ ngân hàng cho lĩnh vực nông nghiệp thấp hơn rất nhiều lần so với ngành nghề khác mà ở đây có thể so sánh với nguồn tín dụng đổ vào xây dựng, phát triển dự án bất động sản. Trong khi đó, nông nghiệp lại có rất nhiều đóng góp lớn cho các ngành nghề trong tương lai.
Từ những thực tế trên, chuyên gia tài chính – ngân hàng kiến nghị để nông nghiệp Việt Nam phát triển, sự động viên tích cực theo hướng thực tế của Chính phủ, tức “nói phải đi đôi với thực tế” rất cần thiết. Muốn bất động sản nông nghiệp mở rộng thì bài toán vốn và quỹ đất phải giải được đầy đủ.
Chia sẻ